Tin mới:
Khung chỉ số quốc gia về khoa học và công nghệ: Công cụ nâng sức cạnh tranh của Việt Nam
Tổ chức Sở hưu trí tuệ thế giới (WIPO) mới đây công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025, trong đó Việt Nam (VN) tiếp tục giữ vị trí thứ 44/139 quốc gia và nền kinh tế, tương đương năm 2024. Kết quả này giúp VN duy trì trong nhóm 50 quốc gia có hệ sinh thái đối mới sáng tạo hàng đầu thế giới, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Ngay sau khi GII 2025 được công bố, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định về Khung chỉ số phục vụ theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Việc triển khai Khung chỉ số quốc gia cho thấy quyết tâm của VN trong việc biến khoa học, công nghệ và đối mới sáng tạo thành động lực then chốt, không chỉ để nâng hạng GII, mà quan trọng hơn là chuyển hóa tri thức thành năng suất, năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
Xuất khẩu dệt may đạt 46 tỷ USD
Năm 2025, dù chịu nhiều sức ép về chi phí, thuế quan và thiên tai, xuất khẩu dệt may VN vẫn đạt khoảng 46 tỷ USD, tăng 5% so với năm trước. Sản phẩm dệt may VN hiện đã có mặt tại 138 thị trường trên thế giới, trong đó Hoa Kỳ vẫn là thị trường chủ lực với kim ngạch ước đạt trên 18 tỷ USD, tăng khoảng 10%. Nhóm hàng may mặc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chiếm trên 38 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tổ chức Sở hưu trí tuệ thế giới (WIPO) mới đây công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025, trong đó Việt Nam (VN) tiếp tục giữ vị trí thứ 44/139 quốc gia và nền kinh tế, tương đương năm 2024. Kết quả này giúp VN duy trì trong nhóm 50 quốc gia có hệ sinh thái đối mới sáng tạo hàng đầu thế giới, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Ngay sau khi GII 2025 được công bố, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định về Khung chỉ số phục vụ theo dõi, đánh giá tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Việc triển khai Khung chỉ số quốc gia cho thấy quyết tâm của VN trong việc biến khoa học, công nghệ và đối mới sáng tạo thành động lực then chốt, không chỉ để nâng hạng GII, mà quan trọng hơn là chuyển hóa tri thức thành năng suất, năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bền vững, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
Xuất khẩu dệt may đạt 46 tỷ USD
Năm 2025, dù chịu nhiều sức ép về chi phí, thuế quan và thiên tai, xuất khẩu dệt may VN vẫn đạt khoảng 46 tỷ USD, tăng 5% so với năm trước. Sản phẩm dệt may VN hiện đã có mặt tại 138 thị trường trên thế giới, trong đó Hoa Kỳ vẫn là thị trường chủ lực với kim ngạch ước đạt trên 18 tỷ USD, tăng khoảng 10%. Nhóm hàng may mặc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chiếm trên 38 tỷ USD tổng kim ngạch xuất khẩu.
Gỡ nút thắt đầu tư công để bút phá tăng trưởng năm 2026
Đức hoàn tất tiến trình phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVIPA)
Hàng triệu tỷ đồng vốn đầu tư công được kỳ vọng tạo cú hích cho tăng trưởng hai chữ số từ năm 2026. Nhưng áp lực về tiến độ, chi phí và hiệu quả đang làm lộ rõ những điểm nghẽn cũ như vật liệu xây dựng, thể chế và năng lực thực thi. Tiến sĩ Đỗ Thiên Anh Tuấn, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright cho rằng đầu tư công có sức lan tỏa mạnh mẽ đối với tăng trưởng. Hiện tổng vốn đầu tư toàn xã hội của VN tương đương khoảng 33% GDP, trong đó vốn đầu tư công chiếm gần 10% GDP, tương ứng khoảng 28% tống cơ cấu vốn đầu tư. Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế tối thiểu 10% từ năm 2026 trở đi, mức độ phụ thuộc vào tăng trưởng đầu tư công vẫn là rất lớn. Theo kịch bản giả định cho năm 2026, nếu GDP thực tăng 10% và lạm phát duy trì ở mức 4%, quy mô nền kinh tế có thể vượt 14 triệu tỷ đồng theo giá hiện hành. Khi đó, để đưa tổng vốn đầu tư xã hội lên mức 40% GDP theo định hướng của Chính phủ, nhu cầu vốn sẽ vào khoảng 5,8 triệu tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư công ước khoảng 1,65 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, vấn đề then chốt hiện nay không nằm ở quy mô vốn, mà ở hiệu quả sử dụng vốn. Hệ số ICOR của VN sau đại dịch ở mức khá cao, phản ánh hiệu quả đầu tư còn hạn chế. Nếu ICOR không được cải thiện, đế đạt tăng trưởng 10%, tỉ lệ đầu tư toàn xã hội có thế phải đấy lên mức rất cao, tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô. Từ thực tiễn doanh nghiệp, ông Trần Ngọc Liêm, Giám đốc VCCI-HCM cho rằng đầu tư công đang bị tắc bởi hai điểm nghẽn lớn gồm nguồn cung vật liệu xây dựng và bất cập trong tố chức thực thi ở địa phương. Thực tế triển khai cho thấy chênh lệch lớn giữa giá vật liệu trên thị trường và đơn giá trong hợp đồng đầu tư công khiến nhiều nhà thầu rơi vào thế khó, không thể tiếp tục thi công. Trong khi đó thủ tục cấp phép mỏ, điều chỉnh công suất khai thác còn chậm, thiếu linh hoạt. Trong bối cảnh năm 2026 đang đến gần, việc tháo gỡ đúng và trúng các "điểm nghẽn" không chỉ quyết định tốc độ giải ngân hàng triệu tỷ đồng vốn đầu tư công, mà còn định hình chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế VN trong nhiều năm tới.
Kiểm kê khí nhà kính: nền tảng phát triển xanh
TS. Nguyễn Phi Hùng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học ứng dụng, Trường Đại học FPT cho rằng kiểm kê khí nhà kính đang trở thành một tiêu chuẩn bắt buộc trong chuỗi cung ứng toàn cầu, chứ không chỉ là quy trình nội bộ. Các tập đoàn FDI lớn như Samsung, Toyota, Nike đều yêu cầu nhà cung ứng công bố dấu chân carbon (carbon footprint) trước khi ký hợp đồng. Đồng thời, cơ chế thuế carbon biên giới (CBAM) và các tiêu chuẩn ESG quốc tế đang khiến doanh nghiệp không thực hiện kiểm kê đứng trước nguy cơ bị loại khỏi thị trường xuất khấu. Các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp và địa phương hiện nay đang phải đối mặt với 3 rào cản căn bản: Thiếu năng lực và công cụ kiểm kê đạt chuẩn; dữ liệu sản xuất phân tán, công nghệ lạc hậu; nhận thức chưa đồng bộ. Theo các chuyên gia, địa phương cần chuyển từ tư duy tuyên bố mục tiêu sang sẵn sàng hành động bằng: Khung dữ liệu phát thải chuẩn hóa theo ngành; đội ngũ cán bộ phụ trách mảng môi trường của doanh nghiệp cần được đào tạo về biến đổi khí hậu, kiếm kê khí nhà kính; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và số hóa dữ liệu và thí điểm mô hình thị trường carbon địa phương. Muốn hướng tới phát triển xanh thật sự, mỗi địa phương cần bắt đầu bằng một bộ kiểm kê khí nhà kính minh bạch, chính xác và cập nhật định kỳ. Đó không chỉ là yêu cầu của thời đại mà còn là chìa khóa để kinh tế địa phương phát triển bền vững trong kỷ nguyên Net Zero.
Gia tăng giá trị thặng dư cho nông sản xuất khấu
Kiểm kê khí nhà kính: nền tảng phát triển xanh
TS. Nguyễn Phi Hùng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học ứng dụng, Trường Đại học FPT cho rằng kiểm kê khí nhà kính đang trở thành một tiêu chuẩn bắt buộc trong chuỗi cung ứng toàn cầu, chứ không chỉ là quy trình nội bộ. Các tập đoàn FDI lớn như Samsung, Toyota, Nike đều yêu cầu nhà cung ứng công bố dấu chân carbon (carbon footprint) trước khi ký hợp đồng. Đồng thời, cơ chế thuế carbon biên giới (CBAM) và các tiêu chuẩn ESG quốc tế đang khiến doanh nghiệp không thực hiện kiểm kê đứng trước nguy cơ bị loại khỏi thị trường xuất khấu. Các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp và địa phương hiện nay đang phải đối mặt với 3 rào cản căn bản: Thiếu năng lực và công cụ kiểm kê đạt chuẩn; dữ liệu sản xuất phân tán, công nghệ lạc hậu; nhận thức chưa đồng bộ. Theo các chuyên gia, địa phương cần chuyển từ tư duy tuyên bố mục tiêu sang sẵn sàng hành động bằng: Khung dữ liệu phát thải chuẩn hóa theo ngành; đội ngũ cán bộ phụ trách mảng môi trường của doanh nghiệp cần được đào tạo về biến đổi khí hậu, kiếm kê khí nhà kính; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và số hóa dữ liệu và thí điểm mô hình thị trường carbon địa phương. Muốn hướng tới phát triển xanh thật sự, mỗi địa phương cần bắt đầu bằng một bộ kiểm kê khí nhà kính minh bạch, chính xác và cập nhật định kỳ. Đó không chỉ là yêu cầu của thời đại mà còn là chìa khóa để kinh tế địa phương phát triển bền vững trong kỷ nguyên Net Zero.
Gia tăng giá trị thặng dư cho nông sản xuất khấu
Ngành nông nghiệp đặt mục tiêu tăng trưởng khoảng 3,5% mỗi năm, vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa hướng tới kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 100 tỷ USD. Đổ đạt được điều này, chế biến sâu và gia tăng giá trị cho nông sản xuất khẩu là yêu cầu then chốt. Với thị trường EU, EVFTA mở ra cơ hội lớn, song nông sản Việt hiện mới chiếm khoảng 2% tổng nhập khẩu của khối, cho thấy dư địa phát triển còn rất rộng. Thực tế, phần lớn sản phấm vẫn xuất khẩu ở dạng thô hoặc sơ chế, khiến giá trị gia tăng và khả năng khai thác thị trường có sức chi trả cao như EU còn hạn chế. Trong khi đó, EU ngày càng siết chặt các tiêu chuẩn về chất lượng, phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội. Ông Nguyễn Đình Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả VN nhấn mạnh, để tham gia sân chơi toàn cầu, nông dân và doanh nghiệp phải tuân thủ quy chuẩn an toàn quốc tế, xây dựng vùng nguyên liệu chất lượng cao và đáp ứng hàng rào kỹ thuật riêng của từng thị trường. EU hiện cấm 36 hoạt chất bảo vệ thực vật và có thể kiểm tra tới 10% lô hàng nhập khẩu, đòi hỏi sự kiểm soát nghiêm ngặt toàn bộ chuỗi sản xuất. Bên cạnh đó, việc thiếu một thương hiệu chung cho nông sản Việt trên thị trường quốc tế tiếp tục là điếm yếu. Muốn tạo dấu ấn bền vững, cần xây dựng “ngôi nhà chung” cho nông sản Việt, tăng cường liên kết doanh nghiệp - nông dân, chia sẻ rủi ro, cam kết thu mua dài hạn để ổn định nguồn cung vả chất lượng.
Việc CHLB Đức hoàn tất tiến trình phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam (VN) - Liên minh châu Âu (EVIPA) trong năm kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước là dấu mốc quan trọng, thể hiện mức độ tin cậy chính trị - kinh tế ngày càng cao và khẳng định VN là đối tác đầu tư chiến lược dài hạn của nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Là hiệp định bảo hộ đầu tư thế hệ mới với các tiêu chuẩn cao về minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư và giải quyết tranh chấp, EVIPA tạo hành lang pháp lý an toàn cho dòng vốn dài hạn từ CHLB Đức và EU vào VN. Sự kiện phản ánh nỗ lực cải cách bền bỉ và nhất quán của VN trong hoàn thiện thế chế, cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản trị, đồng thời mở ra triển vọng thu hút đầu tư chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ, năng lượng tái tạo, hạ tầng và công nghiệp chế biến.
Ô nhiễm sông và thách thức lớn với phát triển đô thị
Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, hầu hết các dòng sông ở VN, kể cả suối đầu nguồn, đều đang bị ô nhiễm ở những mức độ khác nhau. Nguồn ô nhiễm chủ yếu đến từ nước thải sinh hoạt, phân bón và hóa chất nông nghiệp bị rửa trôi; riêng tại các sông lớn, đặc biệt ở đô thị, tình trạng càng nghiêm trọng do nước thải công nghiệp, làng nghề và khối lượng lớn nước thải sinh hoạt chưa được xử lý đạt chuẩn. Trong nông nghiệp, việc lạm dụng phân bón hóa học khiển khoảng 20% lượng phân bón bị rửa trôi ra môi trường nước, trở thành nguồn gây ô nhiễm đáng kế. Các hệ thống sông đô thị như Tô Lịch, Lừ, Sét, Nhuệ tại Hà Nội là nhũng ví dụ điển hình. Dù khung pháp luật về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện, hiệu quả thực thi vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Theo ông Nguyễn Khắc Kinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nguyên nhân cốt lõi nằm ở nhận thức và công tác phòng ngừa chưa đi từ gốc; đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu chiều sâu dự báo, trong khi các công cụ như kiểm toán môi trường, giám sát độc lập sau đánh giá chưa phát huy hiệu quả, khiến nhiều rủi ro môi trường tiềm ẩn không được nhận diện kịp thời.
Ô nhiễm sông và thách thức lớn với phát triển đô thị
Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, hầu hết các dòng sông ở VN, kể cả suối đầu nguồn, đều đang bị ô nhiễm ở những mức độ khác nhau. Nguồn ô nhiễm chủ yếu đến từ nước thải sinh hoạt, phân bón và hóa chất nông nghiệp bị rửa trôi; riêng tại các sông lớn, đặc biệt ở đô thị, tình trạng càng nghiêm trọng do nước thải công nghiệp, làng nghề và khối lượng lớn nước thải sinh hoạt chưa được xử lý đạt chuẩn. Trong nông nghiệp, việc lạm dụng phân bón hóa học khiển khoảng 20% lượng phân bón bị rửa trôi ra môi trường nước, trở thành nguồn gây ô nhiễm đáng kế. Các hệ thống sông đô thị như Tô Lịch, Lừ, Sét, Nhuệ tại Hà Nội là nhũng ví dụ điển hình. Dù khung pháp luật về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện, hiệu quả thực thi vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Theo ông Nguyễn Khắc Kinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nguyên nhân cốt lõi nằm ở nhận thức và công tác phòng ngừa chưa đi từ gốc; đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường chưa được thực hiện đầy đủ, thiếu chiều sâu dự báo, trong khi các công cụ như kiểm toán môi trường, giám sát độc lập sau đánh giá chưa phát huy hiệu quả, khiến nhiều rủi ro môi trường tiềm ẩn không được nhận diện kịp thời.
Nguồn: Cổng TTĐT Chính Phủ
Tin tức nổi bật khác
30 Tháng Mười Hai 2025
THÔNG TIN, BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH NGÀY 24.12.2025
29 Tháng Mười Hai 2025
THÔNG TIN, BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH NGÀY 22.12.2025
26 Tháng Mười Hai 2025
THÔNG TIN, BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH NGÀY 20.12.2025
26 Tháng Mười Hai 2025
Thư mời chào giá gói thầu Đánh giá công nhận Tổ chức chứng nhận phù hợp ISO/IEC 17065:2012, ISO/IEC 17021-1:2015, ISO/IEC 17021-3:2017, ISO/IEC 17021-2:2016
25 Tháng Mười Hai 2025
